Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

Đề bài: Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).

 Tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng từ lâu được được liệt kê vào hàng ngũ những tác phẩm xuất sắc nhất của thể loại tiểu thuyết trào phúng. Nghệ thuật trào phúng được thể hiện trong tác phẩm Số đỏ rất rõ nét.

Số đỏ là tác phẩm mà vừa khiến người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười đầy hả hê và thoải mái nhưng cũng là tác phẩm sẽ khiến người đọc phải ngẫm nghĩ lại mà phẫn uất thốt lên tại sao trên đời lại có cái xã hội chứa lũ người vừa giả dối, bịp bợp mà bất nhân bất nghĩa đến vậy.

Vũ Trọng Phụng không phải là người viết nên những mâu thuẫn ấy mà nó vốn có sẵn trong bản chất xã hội
Vũ Trọng Phụng không phải là người viết nên những mâu thuẫn ấy mà nó vốn có sẵn trong bản chất xã hội

   Chắc hẳn khi đọc tác phẩm Số đỏ, người đọc sẽ nghĩ đây chính là sở trường của Vũ Trọng Phụng. Và sở trường ấy được thể hiện rất nổi bật và lợi hại ở chương XV – Hạnh phúc của một tang gia.  Sở trường đó chính là nghệ thuật tạo mẫu thuẫn.

Thực ra, Vũ Trọng Phụng không phải là người viết nên những mâu thuẫn ấy mà nó vốn có sẵn trong bản chất xã hội. Với góc nhìn đầy sắc sảo của nhà văn Vũ Trọng Phụng và với sở trường văn trào phúng bẩm sinh của mình. Tác giả đã dễ dàng nhận ra nó, chỉ ra, làm nổi bật và nâng nó lên để cho thiên hạ cùng nhìn thấy để rồi cười và căm ghét, khinh bỉ nó.

   Ngay từ cách đặt nhan đề chương XV của nhà văn họ Vũ ta có thể cảm nhận được sự tàn nhẫn, lạnh lùng và ngay cả sự mâu thuẫn trong đó: Hạnh phúc của một tang gia. Làm sao tang gia lại có thể hạnh phúc được? Người thân trong gia đình ra đi mà có thể khiến họ hạnh phúc được ư?

Với sự vô lý, mâu thuẫn rõ ràng ấy, người đọc thậm chí còn ngờ vực đấy chỉ là sự bịa đặt của nhà văn – một sự bịa đặt ác ý. Nhưng buồn thay, đấy nào đâu phải là sự ác ý của nhà văn mà lại là sự thật ở đời sống – sự thật của một xã hội mà Vũ Trọng Phụng muốn phân tích, mổ xẻ nó ra để mọi người có thể nhìn thấy nó tận mặt, rõ ràng.

   Sự việc bắt đầu từ cái chết của một ông già. Đó là một người cha, một người ông của một đại gia đình và là một nhân vật đáng kính của một xã hội thượng lưu. Mỗi người một vẻ – cả đại gia đình ấy nhao nhao lên. Nhưng không phải vì đau khổ hay đau đớn hay lo lắng hay bất cứ cảm giác tiêu cực gì mà là vì… hạnh phúc!

Vậy đấy, cái chết ấy lại tạo sung sướng cho nhiều người. Câu văn tóm gọn đầy ngược đời ấy của Vũ Trọng Phụng đã biểu hiện được cả một thứ thế thái nhân tình.

   Tác giả không hề bịa đặt cái nhận định đó để cho vui mà sự thật rõ rành rành như thế này: Ông Phán mọc sừng, sau cái chết của bố vợ, được biết là sự mọc sừng của mình tăng giá lên thêm vài nghìn đồng.

Cụ cố Hồng thì sung sướng đầy mơ màng, khi mặc đồ xô gai, “lụ khụ chống gậy, vừa kho khạc vừa khóc máu” “để cho thiên hạ phải chỉ trỏ”, khen ngợi “một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…”.

Còn về người cháu đích tôn – ông Văn Minh – một nhà cải cách xã hội, ông sung sướng tột đỉnh, bởi vì, sau cái chết của ông nội mình, “cái chúc thư kia sẽ vào thời kỳ thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa” – nghĩa là mong ước ông nội mình chết đi để được chia của ấy, đã thành sự thật.

Bà Văn Minh thì sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà nóng ruột ngóng được chưng diện “những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen – Dernières créations!” của tiệm may Âu hóa.

   Tưởng tâm địa lũ người ấy đến thế đã là tởm. Nhưng sự việc đâu nào có dừng ở đó. Vũ Trọng Phụng tiếp tục đẩy mâu thuẫn lên thêm một tầng cao mới – bọn con cháu bất hiếu bất mục nhất trần đời ấy lại muốn tỏ ra mình là những kẻ hiếu thảo cũng nhất trần đời nữa kìa.

Dưới ngòi bút của nhà văn trào phúng Vũ Trọng Phụng, cái sự bịp bợm đáng tởm nhất cuối cùng cũng được bộc lộ ra. Nhằm bày tỏ lòng hiếu thảo, lòng tiếc thương đối với người đã mất, đám người mong cho ông cụ mau chết đó đã tổ chức một đám ma thật to. Cũng chính bởi vậy, tác giả đã tập trung hết sức mạnh văn chương trào phúng của mình để lột tả sự thối tha giả tạo ấy qua phần tả cảnh đám ma ở phần thứ hai của chương sách.

   Đầu tiên là miêu tả cô Tuyết – một cô gái hư hỏng nhưng chỉ hư hỏng một nửa – thứ thiếu nữ tiêu biểu trong xã hội tân thời ngày ấy. “Tuyết mặc bộ y phục ngây thơ” nửa kín nửa hở và nét mặt “lại hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám” – nhưng vẻ mặt ấy là vì nhớ nhân tình, không phải vì thương người đã mất. Cái vẻ của người thiếu nữ ấy đã đem lại một hiệu ứng kì lạ: những ông tai to mặt lớn đi phúng viếng thì trở nên cảm động hơn trước vẻ khơi gợi của Tuyết.

   Đám ma được tổ chức rất lớn, lớn đến nỗi có thể khiến người đã mất nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng. Họ lợi dụng đám ma vốn để khoe sự giàu sang của mình và khoe cái lòng hiếu thảo vờ vịt của bản thân.

Đám con cháu của ông cụ ấy đã đưa ra cái giả dối, bịp bợm đồng nghĩa chính là sự tàn nhẫn, đểu giả, bất nhân của mình lên một cách rất trọn vẹn và xuất sắc. Chưa dừng lại ở đó, dưới góc nhìn của tác giả, lũ người giả dối không chỉ có một nhóm nhỏ như vậy. Chúng còn đông hơn vậy nữa kìa – là toàn xã hội.

   Mở đầu với đại diện của Nhà nước – đại diện bộ máy cảnh sát, thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Hai thầy được chủ đám ma thuê làm người giữ trật tự, “sung sướng cực điểm, đã trông nom rất hết lòng”. Họ mừng rỡ như vậy bởi vốn đang “rầu như những nhà buôn sắp vỡ nợ” do không có việc gì để làm.

Tiếp đến là các ông tai to mặt lớn – tinh hoa của giới thượng lưu – “ngực đầy những huy chương”. Trong đám ma, những vị này có cảm động nhưng không phải vì thương nhớ gì ông cụ đã mất mà vì được ngắm “làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết” miễn phí.

   Và rồi, sự cảm động được đạt đến cực điểm khi hai tên đại bịp xuất hiện – Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú bởi “sáu chiếc xe”, “hai vòng hoa đồ sộ” của hai kẻ đó đã phần nào tăng thêm phần long trọng, to tát cho đám tang. Hành động “chu đáo” đáo đã khiến cả cụ cố Hồng – người có lẽ là lương thiện nhất trong cái gia đình thối nát ấy – cũng phải cảm động đến hớt hải lên.

   Người đi đưa đám quả thật rất đông đúc. Với cách sử dụng nghệ thuật điệp ngữ: “Đám cứ đi…”, tác giả đã nhấn mạnh được đám ma rất to, số lượng người đi đưa đám rất đông. Cơ mà, chắc tìm mòn mắt cũng không thấy được ai thực sự đi đưa đám – người thực sự khóc thương cho người đã khuất đâu. Không – một – ai.

Mọi người, từ đàn ông đến đàn bà, từ già đến trẻ, đều giữ vẻ nghiêm chính, nhưng không hề có một câu nói, một hành động hay một ý nghĩa gì dính dáng đến người đã mất và đám ma của người ấy cả. “Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau” nhưng với “vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma”.

   Nhẫn tâm vậy đấy, vô liêm sỉ vậy đấy. Nhưng lắng nghe thêm về cuộc trò chuyện của bọn họ ta còn thấy cái vô liêm sỉ ấy còn trơ tráo hơn nữa kìa. Và, cái sự vô liêm sỉ ấy không dừng lại, nó còn tiếp diễn – “Đám cứ đi…”

   Đến khi đám dừng lại để hạ huyệt, đã có hai chi tiết khiến cho cảnh đưa đám này được đẩy đến đỉnh điểm. Đầu tiên là chi tiết cậu Tú Tân “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ… để cậu chụp ảnh kỉ niệm”.

Đến chi tiết thứ hai là chi tiết về ông Phán mọc sừng – kẻ dối trá, vô liêm bậc nhất trong cái gia đình đấy – khóc như muốn ngất đi. Song, trong lúc oằn người khóc lóc, ông dúi vào tay Xuân Tóc Đỏ “một cái giấy bạc năm đồng gấp tư”.

Đó là món tiền công cho Xuân Tóc Đỏ vì đã gọi ông là “người chồng mọc sừng” – cái điều đã gián tiếp khiến cho ông cụ chết. Quả thật là những nghệ sĩ màn kịch tài ba. Kết chương đóng lại một cách trọn vẹn với hai chi tiết ấy – cái chương nói về sự giả dối của con người rất sắc sảo.

   Người đọc nửa nghi nửa tin về những gì Vũ Trọng Phụng viết trong chương sách này. Vốn những chi tiết ấy đều rất hợp lý và có vẻ như đều xảy ra trên đời thật. Cách viết của Vũ Trọng Phụng quả thật rất sắc như dao. Chỉ qua những câu như bông đùa, những sự thật của cuộc đời cứ vậy nổi lên, và nổi lên với hai điều lớn nhất: sự bất nhân và sự giả dối.