Bình giảng bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà

Bình giảng bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà

Dàn ý và bài văn mẫu: Bình giảng bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà.

I. Dàn ý: Bình giảng bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà

1. Mở bài:
Tản Đà (1889 – 1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Ông là thi sĩ tài danh, lãng mạn,…
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội là tác phẩm đặc sắc của ông.
2. Thân bài:
– Mở đầu bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” là một tiếng than, một lời tâm sự.
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán chửa rồi.
– Nỗi buồn đến mức “buồn lắm” và chỉ còn biết gọi “chị Hằng ơi” để tâm sự. Thật thú vị và độc đáo!
– Giấc mộng thoát ly. Mộng vì chán đời, ngán đời. Mộng có tính phủ định:
Nghĩ đời lắm lúc không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời.
– Có lên được cung quế mới đỡ “tủi”, mới thỏa thích “thế mới vui”. Có chị Hằng làm bầu bạn, có gió, có mây cùng chơi.
– Thấm đẫm vần thơ là chất phong tình lãng mạn, đọc lên nghe rất thú vị:
Có bầu, có bạn, can chi tủi
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui.
– Cử chỉ “tựa nhau” và nụ cười của Tản Đà là một giấc mộng đẹp. Thoáng một chút mỉa mai (cho trần thế) nhưng đầy thú vị vì được thoát li, được thỏa thích nơi cung quế:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
– Muốn làm thằng Cuội là một bài thơ có thi đề độc đáo, thú vị. Giọng thơ nhẹ nhàng, chơi vơi, thanh thoát. Trí tưởng tượng phong phú, kì diệu.
3. Kết bài:

Muốn làm thằng Cuội tiêu biểu nhất cho hồn thơ tài hoa lãng mạn và phong cách thơ của Tản Đà thi sĩ.

II. Bài văn mẫu: Bình giảng bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889 – 1939) là gương mặt đặc biệt trên thi đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, người đã mang đến một làn gió lạ cho thơ ca Việt Nam, với cái ngông nghênh khinh bạc của nhà Nho cuối cùng và người tiên phong cho thi ca vào con đường chuyên nghiệp. Tình say, ý lạ, tứ mới chưa làm nên một Tản Đà, mà điều chủ yếu là sự thành thực tự nhiên trong cảm xúc, ngay cả khi thi nhân chìm đắm vào cõi mộng. Những “khối tình”, những “giấc mộng” làm nên một phần văn nghiệp Tản Đà. Muốn làm thằng Cuội là một sự kết hợp của mộng và tình, để ta nhận ra chân dung của con người dám lấy cái ngông như một sự thách thức với cuộc đời ô trọc.
Tản Đà đã có vinh dự là người “dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kỳ đang sắp sửa” (Hoài Thanh, Hoài Chân – Thi nhân Việt Nam). Cung bậc của tiếng đàn ấy là của một tâm hồn phóng túng không bị câu thúc trong lối văn trường ốc, có cái bay bổng của vị “trích tiên” tự coi mình là người lạc bước chốn trần gian. Thơ Tản Đà có một không gian riêng với Tây Thi, Dương Quý Phi, Chức Nữ, Hằng Nga, những giai nhân “hồng nhan tri kỷ” với khách tài tử phong lưu. Người đời đã cho Tản Đà là “ngông”, nhưng cần phải hiểu đó cũng chính là thái độ của ông phản ứng lại xã hội thực dân phong kiến vốn có quá nhiều điều khiến ông chán ngán buồn bực. Muốn làm thằng Cuội chính là một phản ứng như vậy.
Dường như đối với Tản Đà, mùa thu cũng tạo nên nhiều duyên nợ. Từ khoảnh khắc “Vèo trông lá rụng đầy sân” để nhận ra công danh như một thoáng chốc, đến đêm thu chìm đắm trong mối sầu, thi nhân đã để cho những tâm tình bộc bạch cùng trời đất :
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nửa rồi
Lại một đêm thu, lần này nhà thơ tìm đến với “chị Hằng”. Mà lạ, không phải với cái cuồng vọng đòi cưới Hằng Nga mà lại là một chút khép mình xưng “em” rất ngọt! Cậu ấm Hiếu đã mỏi mệt với những muộn phiền trần thế, nên thở ra một giọng chán đời chăng? Cái buồn cố hữu của mùa thu khiến nhà thơ buồn, hay ánh trăng đối diện với con người gợi ra cảm giác lẻ loi đến mênh mông ? Tản Đà đã đến với trăng không phải bằng tư thế “đối diện đàm tâm” – nhìn nhau chuyện trò trong im lặng bằng sự cảm thông của đôi lòng, ông đã thốt lên lời tha thiết nhắn nhủ “chị Hằng ơi!”. Nỗi buồn trần thế tràn ngập đêm thu, từ trong toả ra chứ không phải do  “gió thu lạnh – sương thu bạch – khói thu xây thành” như câu thơ trong “Cảm thu, tiễn thu” mà thi sĩ chạnh lòng. Điều khiến người đọc lưu tâm ở câu thơ thứ hai là kiểu “chán nửa rồi” với “trần thế” chứ không phải là “chán hết rồi”. Chán nửa có nghĩa là chưa chán hẳn, còn thiết tha với cõi đời. Vậy là thi nhân mâu thuẫn với chính mình, giữa ước muốn thoát ly hẳn đời như các thi nhân xưa muốn về với cõi tiên “lánh đục tìm trong” và tâm nguyện ở lại với đời để làm tròn “thiên lương” giúp ích cho nhân quần, nhân loại. Đã có lần nhà thơ băn khoăn với câu hỏi “Đời đáng chán hay là không đáng chán?” với bạn tri âm. Nhưng phút này đây, tri âm vắng bóng để nhà thơ vọng về trăng tâm sự với chị Hằng.
Trí tưởng tượng phong phú và mãnh liệt của nhà thơ đã làm nên một ước vọng cao vời:

Cung quế có ai ngồi đó chửa
Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Hai câu thực làm rõ cho ước muốn của Tản Đà: muốn làm thằng Cuội. Cung quế, cành đa để gợi nhắc câu chuyện cổ tích nhưng dường như có sự so sánh ngầm trong ý thơ: ở cõi trần gian, “trích tiên” Tản Đà đang cô đơn trong nỗi buồn của chính mình, còn nơi cung Quảng, Hằng Nga cũng đang cô đơn như khách trần gian. Hành trình tưởng tượng của nhà thơ đã ngược về với thời gian cổ tích, để nhà thơ hoá thân vào chú Cuội. Duy chỉ có khác một chi tiết nhỏ: ngày xưa Cuội bám cành đa thần để bay lên trăng, còn hiện tại thì cành đa ấy lại là chiếc thang đón hồn thi nhân lên cung quế. Nghĩa là Tản Đà đến với Hằng Nga để thay thế vai trò chú Cuội. Câu thơ có một chút hóm hỉnh trong ý tứ, nhưng đó là cách cắt nghĩa cho tính chất cuộc gặp gỡ đặc biệt này: giữa Hằng Nga và Tản Đà là mối quan hệ của hai tâm hồn cô đơn đang cần tìm đến nhau. Tản Đà “xin” mà không cầu lụy, bởi lẽ khi hướng về “cung quế”, có lẽ thi nhân cũng hiểu thấu nỗi niềm Hằng Nga chăng?

Bởi thế, hai câu luận là sự sẻ chia của đôi hồn cô đơn:

Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui

Bản chất đa tình của thi sĩ đã hé lộ. Câu thơ không phải chỉ diễn tả tâm trạng từ một phía, vì nếu như vậy chẳng hoá ra thi sĩ lên trăng chỉ là giải thoát cho nỗi buồn bực của riêng mình? Cái nồng nàn trong tình ý câu thơ chính là ở chỗ nhà thơ cùng lúc diễn tả hai tâm trạng: một là của Hằng Nga – người cung Quảng Hàn, một là của Tản Đà – trích tiên nơi trần thế. Nét phóng khoáng tâm hồn thi nhân đâu chỉ là cái ước vọng lên trăng để vượt thoát cảnh trần đầy chán ngán, mà chính là khi được làm chú Cuội nghĩa là được làm bạn cùng san sớt nỗi buồn với giai nhân cung quế. Có như vậy mới thật sự là tri âm tri kỷ! Cái độc đáo Tản Đà chính là ở chỗ cảm nhận được nỗi u buồn của Hằng Nga trong không gian quạnh quẽ chốn Quảng Hàn. Cũng như đã có lần nhà thơ phát hiện giữa cõi tiên tấm lòng trần gian của tiên nữ:

Lá đào rơi rắc chốn Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi
(Tống biệt)

Cảnh tiên cũng buồn, nên thi nhân lên với cõi tiên là để chia sẻ cùng người tiên chút tình nồng dương gian của người-cõi –tục. Đồng thời, khi được “cùng gió cùng mây” không vướng bận những lo toan trần thế, con người cũng được giải thoát khỏi nỗi sầu vô hình đè nặng. Tìm về cõi mộng là cách để phá tan thành sầu ỡ cõi thực, nỗi sầu như thi nhân đã từng cảm nhận: “Từ độ sầu đến nay, ngày nào cũng có lúc sầu , đêm cũng có lúc sầu. Mưa dầm lá rụng mà sầu, trăng trong gió mát mà càng sầu; nằm vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ văn ngâm vịnh mà càng sầu. Sầu không có mối, chém làm sao cho đứt; sầu không có khối, đập sao cho tan…” (Giải sầu). Trong nỗi sầu của nhà thơ, ta nhận ra những ám ảnh thời thế, nhân thế và nhân thế. Bầu bạn cùng chị Hằng, phải chăng là lúc nhà thơ thật sự thoát khỏi những ám ảnh ấy khi được cận kề hồng nhan tri kỷ:

Rồi đến mỗi năm rằm tháng Tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười

Bài thơ được mở đầu bằng lời than “buồn lắm”, kết lại bằng nụ cười đêm rằm tháng Tám. Niềm vui thay thế nỗi buồn khi những tấm lòng tri kỷ đã gặp gỡ được nhau. Cảm hứng của bài thơ trọn vẹn với hình ảnh trăng thu tuyệt đẹp lay thức giấc mơ của bao kẻ muốn lánh đời thoát tục.  Nhưng nếu chỉ có vậy thì cảm hứng bài thơ chưa vượt thoát khỏi khuôn sáo cũ mòn của thơ xưa. Cái tình tứ “tựa nhau” đã làm hiện rõ chất lãng mạn độc đáo của tâm hồn nhà thơ. Có lẽ chưa ai trước Tản Đà lại có sự liên tưởng táo bạo đến thế! Câu chữ khéo léo, ý tình dào dạt của Tản Đà đã làm nên nét nghĩa mới của hình tượng: chú Cuội – Hằng Nga trong cổ tích đã hoá thân thành đôi lứa khắng khít Tản Đà tài tử và Hằng Nga giai nhân. Nhưng cõi trần “chán nửa” vẫn hiện diện cùng khoảnh khắc “trông xuống thế gian”  của đôi lứa tâm đầu ý hợp, làm nên nụ cười “rất Tản Đà”. Cười cho trò đời bon chen, cười trước tình đời nhạt nhẽo, và trên hết là nụ cười của kẻ vẫn còn nặng lòng trần thế, canh cánh trong hồn thiên chức nhà văn: “Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ”. Phải chăng nụ cười ấy ẩn chứa một thông điệp hướng về tương lai rạng rỡ niềm vui? Và cũng vì thế mà trăng phải là “rằm tháng Tám”, vằng vặc, tròn đầy, trong trẻo. Tắm mình trong ánh sáng dịu dàng giữa nơi cung quế là cả một tâm hồn thi nhân bay bổng tuyệt vời, thăng hoa cùng vẻ đẹp tuyệt đối của “nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi”.

Bài thơ cho ta nhận ra một chân dung tâm hồn Tản Đà : phóng khoáng, đa tình, nhiều mộng tưởng mà vẫn vướng víu những ưu tư trần thế. Con người ấy muốn giữ trọn “thiên lương” giữa cuộc đời  ô trọc nên phải đắm chìm trong những “giấc mộng con” để sống thành thực với chính mình và với cuộc đời. Ta chợt nhận ra một nhân cách cao quý không bị vẩn đục bởi những toan tính vụ lợi tầm thường, một con người “đi qua cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20” mà vẫn giữ trọn “linh hồn cao khiết” (ý của Hoài Thanh, Hoài Chân – Cung chiêu anh hồn Tản Đà)

Muốn làm thằng Cuội cũng như bao bài thơ bộc bạch tâm tư của Tản Đà giúp ta hiểu thêm về một con người đã dám phô bày cái tôi  đầy cá tính của mình với người đời không cần giấu giếm, như là một cách để đối lập với cả một xã hội thực dân – phong kiến. Tác phẩm góp thêm luồng sinh khí cho cảm hứng lãng mạn, với trí tưởng tượng bay bổng và cảm xúc mãnh liệt, sẽ phát triển mạnh mẽ trong phong trào Thơ Mới 1932 – 1945.

Leave a Comment