Phân tích nhân vậy thống lí Pá Tra trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Tố Hữu từng cho rằng: “Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học”. Hiện thực cuộc sống luôn là mảnh đất màu mỡ, phong phú mà nguồn cảm hứng của người nghệ sĩ là ngọn gió mát lành âm ĩ thổi vào, phản ánh thông qua tác phẩm văn học.
Thiên chức cao quý của văn học bên cạnh việc xây dựng những hình tượng hướng đến giá trị Chân, Thiện, Mĩ của cuộc sống còn là việc vạch trần, phê phán, lên án bản chất xấu xa hay những hành động chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc con người. Hình ảnh bọn phong kiến tay sai của thực dân Pháp và bè lũ bán nước trong xã hội cũ cũng là một khía cạnh để văn học soi chiếu.
Nếu như trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố có Nghị Quế, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan có Nghị Lại, “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng có Nghị Hách thì trong “Vợ chồng A Phủ” – câu chuyện của những người lao động vùng cao Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài – có hình ảnh thống lí Pá Tra, một nhân vật phản diện đại diện sự tàn bạo, ác độc của tay sai thực dân, chúa đất áp bức đày đọa, giam hãm con người. Mị trong tác phẩm là nạn nhân của sự đày ải đớn đau đó.
Một nhà văn đã từng nói: “Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật, ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại”, Pá Tra là một nhân vật điển hình như thế. Tác phẩm đã phản ánh chân thực bức tranh xã hội Tây Bắc trước ngày giải phóng, điều này có ý nghĩa khai phá. Ở đây còn tồn tại chế độ phong kiến, chúa đất với những chức sắc thống lí, xéo phải,… một kiểu phong kiến miền núi bạo tàn, khắc nghiệt hơn nhiều so với chế độ phong kiến miền xuôi trong văn Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan.
Trước hết, Pá Tra là một người giàu có. Mở đầu câu chuyện, Tô Hoài viết: “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. Cách giới thiệu câu chuyện của Tô Hoài nhẹ nhàng man mác hơi thở của cổ tích mà Mị là nhân vật hiền từ, bị áp bức, Pá Tra là tên tay sai bán nước man rợ dã tâm. Ngay cả việc mỗi năm bố Mị phải trả một nương ngô cho nhà thống lí vì món nợ “truyền kiếp” mà ngày xưa bố Mị phải vay của bố thống lí Pá Tra bây giờ cũng đủ biết hắn ta xảo trá đến nhường nào.
Sự giàu sang của Pá Tra là do “ăn của dân nhiều”, bao nhiều mồ hôi, nước mắt, công sức của người dân bị Pá Tra nuốt trọn. Trong xã hội ấy, những người giàu đó đa phần là những người lừa lọc, gian hùng, tham lam, tàn ác. Bởi thế, ngay khi thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho”, Mị xót xa chối từ: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Lối sống của Pá Tra là lối sống trụy lạc, đắm chìm trong những thú vui sa đọa mà thuở ấy thực dân Pháp tìm cách du nhập vào nước ta, làm biến chất nhân dân ta. Pá Tra chìm trong cơn nghiện ngập, lúc nằm nghỉ, lúc xử tội A Phủ hắn đều rít thuốc phiện: “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về kiện”.
Pá Tra đã dùng thần quyền, cường quyền và tiền quyền biến người lai động nghèo khổ trở thành nô lệ không công suốt đời cho hắn. Bản chất ngang ngược, độc địa, vô nhân tính là bản chất của Pá Tra. Điều này góp phần làm tăng tính chân thực của tác phẩm. Cuộc đời của Mị (con dâu gạt nợ) và A Phủ (đứa ở trừ nợ) là cuộc đời của những kẻ nô lệ mang thân phận khổ đau, là những nạn nhân tiêu biểu của chế độ dã man khi ấy. Những nhân chứng hùng hồn này đã làm cho độc giả thấy được bộ mặt thật của bọn thống trị miền núi.
Pá Tra đã dùng cường quyền hung bạo để đày đọa con người: Hành động cho người bắt Mị về làm con dâu gạt nợ rồi mới cho A Sử về nhà bố Mị báo tin “đã cướp được con gái bố làm vợ” là hành động của kẻ tiểu nhân, xảo quyệt, gian hùng. Từ đây, một đoạn đời đau khổ của Mị được mở ra: quẩn quanh, buồn tẻ, mất đi lòng ham sống.
Ở đây, trên danh nghĩa Mị là con dâu nhà thống lí Pá Tra giàu có, vợ A Sử, dưới danh nghĩa lại là con ở không công. Mị bị bóc lột sức lao động, bị hành hạ, đánh đập, tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc vốn có của một con người. Đã bao lần Mị tìm đến cái chết để giải thoát, nhưng rồi lại thôi. Chính việc Mị không còn muốn chết, “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa” mới là điều đau đớn. Cha con thống lí đã biến Mị trở nên vô tri, mất đi nhận thức về nỗi khổ của mình.
Pá Tra đã dùng thần quyền để giam hãm tâm hồn con người. Bắt Mị về hắn cũng cúng trình con ma, “tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa” ngoài tấm vách bất giác người đọc rờn rợn bởi thủ đoạn “giam lỏng” con người của thống lí Pá Tra. Khi Pá Tra cho A Phủ vay tiền để trả nợ cho hắn thì hắn cũng “đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”.
Qua những chi tiết khắc họa hủ tục phong kiến lạc hậu trong truyện: tiếng nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những nghi thức cầu ma, chồng có quyền trói vợ hàng mấy ngày trong buồn tối, bắt người đàn bà theo đuôi con ngựa nhà chồng quanh năm suốt tháng… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng thời cũng phác họa bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc, một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực.
Trong phiên tòa xử kiện vụ án A Phủ đánh con quan, người đọc thấy được bản chất thâm độc, hung tợn của Pá Tra. Ở Hồng Ngài, cha con Pá Tra là vua, ai đụng phải cũng đều chịu những hình phạt dã man, đau đớn của hắn. Khi A Phủ bị giải về nhà thống lí, A Phủ liên tục bị đánh: “A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa tên thống lí Pá Tra rồi quay lại đánh A Phủ”.
Cứ mỗi đợt thống lí hút thuốc phiện xong, A Phủ lại bị “người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu”. Nhà văn hạ bút viết câu văn nhẹ nhàng mà đau xót biết bao: “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”.
Thống lí Pá Tra là tên lọc lõi, mưu mô. Hắn biến A Phủ thành một công cụ hữu hiệu để hắn thống trị Hồng Ngài một cách dễ dàng. Hình phạt của A Phủ mà hắn đưa ra là “Nộp cho thống quán năm đồng, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua đến hôm nay”. Mọi lợi lộc đều về phần quan, Pá Tra chẳng mất gì, còn A Phủ thì phải ở đợ cho hắn đến suốt đời, suốt kiếp.
Cha con nhà thống lí coi rẻ sinh mạng con người. Ở đây, ta thấy được chế độ phong kiến miền núi còn đầu địa, bạo tàn hơn chế độ phong kiến miền xuôi. Cha con Pá Tra tự trao cho mình cái quyền sinh sát khi trong tay mình là những con nợ hắn dùng thủ đoạn cướp về. A Sử đánh Mị không thương tiếc, A Phủ bị hành hạ dã man, và bao người đã đang và sẽ tiếp tục bị hành hạ như vậy: “Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”.
Cảnh Mị bị trói ngay khi Mị sắp trở về với cuộc sống bình thường, với chính mình, trông thật thảm hại: “tay chân đau không cựa được”, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Cảnh “A Phủ bị trói chờ chết” và nỗi lo lắng của Mị: “Biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Những chi tiết này đã cho thấy bản chất độc ác, tàn nhẫn coi rẻ mạng người của thống lí Pá Tra. Một mạng người trong tay thống lí có thể bị cướp đi bất kì lúc nào, cho thấy sự gian hùng, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, sự độc ác vô nhân tính của chúng.
Pá Tra là một nhân vật điển hình. Tính cách và bản chất của hắn tiêu biểu cho bọn tay sai, chúa đất phong kiến hoành hành thống trị miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng. Tô Hoài đã dùng bút pháp hiện thực, ngôn ngữ nhẹ nhàng mà đanh thép, gay gắt để vạch trần, tố cáo bộ mặt giả tạo, gian tà của thống lí Pá Tra. Giá trị hiện thực của câu chuyện nằm ở chỗ ấy.