Đề bài: Cảm nhận của anh chị về đoạn trích Tây Tiến sau:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu áo dữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiều anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Bài làm:
“Ơi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa
Ngàn năm sau còn đủ sức soi đường.”
(Chế Lan Viên – tiếng hát con tàu)
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của chúng ta được ví như là cuộc kháng chiến thần thánh với lắm toàn khổ hi sinh nhưng cũng đầy những tự hào, oanh liệt. Điều đó đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho rất nhiều những thi phẩm nổi tiếng ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến. Và Tây Tiến chính là một trong những bài thơ đặc sắc như thế.
Bài thơ rất giầu chất liệu hiện thực nhưng cũng dạt dào bên cạnh đó là cảm hứng lãng mạn. Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên trong bài thơ vừa hào hoa vừa hào hùng. Đoạn thơ sau dù chỉ là trích đoạn ngắn nhưng cũng cho ta thấy rõ được nét đặc sắc ấy:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu áo dữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiều anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Bài thơ Tây Tiến có thể chia làm bốn loại. Trích đoạn trên bao gồm đoạn hai và đoạn ba của bài thơ. Đó là những đoạn thơ tái hiện lại hình tượng con người trong gian khổ vẫn luôn hy sinh cho chiến đấu, vẫn hiên ngang, đẹp một cách hào hoa, thanh lịch.
Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” đến “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” là bức tranh tuyệt mỹ vẻ cảnh và người Tây Bắc. Đoạn thơ phía sau, những câu còn lại, dựng cho ta hình ảnh chân dung người lính Tây Tiến với giọng thơ trầm hùng và bi tráng.
Nếu chỉ tiếp cận bài thơ này thông qua đoạn trích kể trên thì ta giống như một người lạ lạc vào một thế giới khác: một thế giới bình yên nơi cảnh vật và con người đều đẹp đẽ, mộng mơ như một bức tranh tươi mát. Cái cảm giác no ấm, yên bình gợi lên trước hết là nhờ làn khói lam chiều và mùi hương nếp xôi nồng nàn, quyến rũ. Mai Châu là địa danh dù ta chưa một lần đặt chân tới nhưng lại trở nên thân thiết và quen thuộc hơn bao giờ hết nhờ câu thơ “thơm nếp xôi” và nỗi nhớ chẳng thể cất lên thành lời của Quang Dũng: “nhớ ôi Tây Tiến…”
XEM THÊM >>> Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
XEM THÊM >>> Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Sau đó, người đọc lại lạc vào một thế giới của ánh sáng, của những vũ điệu và âm thanh rực rỡ – một thế giới vừa thực, vừa hư:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Có một cái gì đó vô cùng lãng mạn và say đắm đang hiện lên qua những câu thơ hết sức quen thuộc của Quang Dũng. Trong ánh sáng lửa đuốc của đêm liên hoan, hình ảnh nàng e ấp trong áo xiêm lộng lẫy và tiếng khèn khiến cho nhà thơ thực sự say sưa. Hai tiếng “kìa em” bộc lộ cái ngỡ ngàng, ngỡ ngành và vui sướng. Câu thơ giống như một tiếng reo vui. Hồn thơ lãng mạn của nhà thơ như đang được chắp cánh bay bởi vẻ của con người và cảnh vật nơi đây. Đây là vẻ đẹp vô cùng mới lạ, huyền ảo, xa xôi và có gì đó thật bí ẩn như khung trời miền đất lạ.
Nếu như bốn câu thơ trên trán gặp âm thanh, ánh sáng và vũ điệu vui tươi thì những câu thơ tiếp sao lại giầu chất thơ và chất thoại. Một chiếc thuyền độc mộc với dáng người mềm mại in trên dòng nước. Những bông hoa lâu bên bờ bốn trở lên có hồn và gợi giữa tình cảm da diết. Tất cả đều thấp thoáng, mờ ảo trong chiều sương châu mộc khiến cho người ta lay động. Bốn câu thơ trên quả là một bức tranh lụa với những nét vẽ tài hoa, tinh tế và mềm mại đến lạ thường.
Nếu như bốn câu thơ trên tràn ngập âm thanh, ánh sáng và vũ điệu vui tươi thì những câu thơ tiếp theo lại giầu chất thơ và chất hoạ. Một chiếc thuyền độc mộc với dáng người mềm mại in trên dòng nước. Những bông hoa lau bên bờ bỗng trở lên có hồn và gợi nhớ tình cảm da diết. Tất cả đều thấp thoáng, mờ ảo trong chiều sương Châu Mộc khiến cho người ta lay động. Bốn câu thơ quả là một bức tranh lụa với những nét vẽ tài hoa, tinh tế và mềm mại đến lạ thường:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Trên cái nền diễm lệ, hào hoa, mềm mại và rất đỗi nên thơ, nên nhạc của núi rừng Tây Bắc, Quang Dũng đã dựng nên hình ảnh tượng đài của người chiến sĩ Tây Bắc với vẻ đẹp thật hào hùng, uy tráng qua những câu thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm.”
Nhà thơ không che giấu những gian khổ mà người lính Tây Tiến, hy sinh cho cuộc chiến tranh. Chỉ có điều, những gian khổ, khó khăn và mất mát, hy sinh đó được thể hiện bằng ngòi bút vô cùng lãng mạn. Qua cách nhìn của nhà thơ, cái khó khăn, cái đau đớn mà người lính phải chịu đựng trở lên thật hài hước và có một vẻ đẹp thật riêng khó trộn lẫn. Kể sự tàn khốc mà đoàn lính phải chịu đựng đó là: tóc trụi, da xanh ngắt màu lá rừng vì sốt rét mà qua con mắt trở của nhà thơ bỗng trở lên “giữ oai hùm”. Cái dáng vẻ ấy cùng với đôi “mắt trừng gửi mộng” tạo nên hình ảnh người lính Tây Tiến vừa mang gương mặt của những anh hùng hào kiệt thời xưa lại vừa như hằn lên sự tàn phá đến tận xương tủy mà nơi rừng thiêng nước độc tác động vào con người.
Cái đẹp, cái bi tráng hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến còn được nhà thơ ghi lại bằng những dòng thơ thật trang trọng khi nói về những mất mát, hy sinh của các anh:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiều anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Người lính Tây Tiến đã ngã xuống với không một manh chiếu bọc thân, nhưng trong tâm hồn của nhà thơ, các anh lại được bao bọc bởi những chiếc áo bào chói lọi. Những ngôi mộ người lính nằm rải rác biên cương nơi rừng hoang biên giới bỗng trở nên thật tôn nghiêm nhờ có những từ hán Việt cổ kính và trang trọng: biên cương, viễn xứ… Đoạn thơ kết thúc bằng tiếng gầm dữ dội và uất hận của dòng sông Mã, đó là khúc nhạc bi tráng mà núi rừng Tây Bắc nói lời vĩnh biệt đối với những người chiến sĩ đã hy sinh cả tuổi xuân của mình cho đất nước.
Chỉ với đoạn trích trên ta cũng có thể cảm nhận được sâu sắc bức tượng đài của người chiến sĩ Tây Tiến năm xưa đi đánh Pháp đã được tác giả dựng lên một cách xuất sắc. Đó là một bức tượng đài rất đẹp, một vẻ đẹp kiêu hùng và bi tráng. Tượng đài ấy được xây dựng bởi một người tài hoa, mang trong mình trái tim trân trọng, mến yêu và thành kính với những vị anh hùng của thời đại. Đó là Quang Dũng, là Tây Tiến, là những gì đẹp đẽ, bi tráng nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp oai hùng của dân tộc…
Tải về máy>>>
Download “Cảm nhận của anh chị về đoạn trích Tây Tiến sau”
XEM THÊM >>> Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
XEM THÊM >>> Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
XEM THÊM >>> Cảm nhận của anh chị về đoạn trích trong bài thơ “Việt Bắc” Tố Hữu