Trong văn học dân gian và văn học viết của nước ta, người phụ nữ bình dân đã nêu cao những giá trị cao đẹp về đạo đức, phẩm chất. Nhưng sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, oan trái, họ phải chịu nhiều đau khổ và bất hạnh.
Điển hình chúng ta có thể thấy được hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của tác giả Nguyễn Dữ. Đây là một áng văn hay, tiêu biểu viết về số phận bất hạnh của người phụ nữ đương thời. Trong truyện nổi bật lên là vẻ đẹp và số phận bất hạnh của nhân vật chính – Vũ Nương.
“Chuyện người con gái Nam Xương” có nguồn gốc từ chuyện kể dân gian: Vợ chàng Trương, là thiên thứ 16 trong tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”. Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Vũ Nương một phụ nữ đẹp người, đẹp nết. Nàng có tư dung đẹp, tính tình lại hiền dịu, nết na nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết.
Do không có cơ hội để minh oan, giãi bầy, Vũ Nương đã nhảy sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch của mình. Kết thúc truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời tạ từ rồi biến mất. Vũ Nương đã lựa chọn cái chết vì đó là con đường duy nhất để giải thoát cho mình cũng như để minh chứng cho sự trong sạch của nàng.
Truyện không đơn thuần dừng lại ở sự phản ánh hiện thực mà còn tố cáo hiện thực, mà còn nói lên niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội.
Truyện mở đầu bằng dòng chữ “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương …”, thuộc giới nghèo hèn vốn con kẻ khó. Tên tuổi, quê quán của nhân vật chính đã được giới thiệu rõ ràng như thế. Chứ không giống như những nhân vật khác: Chàng họ Trương, ông họ Phan.
Nàng đẹp người đẹp nết, tư dung tốt đẹp lại hiền dịu nết na. Trương Sinh vì cảm mến cái dung hạnh ấy nên đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng về làm vợ. Như vậy, hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh nói riêng cũng như đa phần các cặp vợ chồng khác trong xã hội phong kiến nói chung là không xuất phát từ tình yêu.
Với Vũ Nương, nàng đã được cha mẹ gả bán, nàng vốn không hề không ham vinh hoa phú quý mà bởi “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Nàng nào dám có ý kiến gì về việc hệ trọng cả đời của mình.
Dù kết hôn không phải trên cơ sở tình yêu nhưng nàng hiện lên là một người vợ nhất mực thủy chung, yêu thương chồng tha thiết. Khi mới về nhà chồng, biết Trương Sinh có tính hay ghen nên Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, cư xử khéo léo đúng mực. Luôn nhường nhịn chồng để không lúc nào gia đình phải đến thất hòa.
Chiến tranh xảy ra, chồng nằm trong danh sách đi lính, ngày tiễn Trương Sinh. Nàng chỉ tha thiết mong hai chữ “bình yên”, không mong danh vọng phú quý. Bởi vậy trong những năm tháng xa chồng, cuộc sống của nàng và con cô quạnh. Nỗi nhớ đốt cháy tâm can, nàng thường hay đùa với con, trỏ bóng mình trên vách tường mà bảo đso là cha Đản.
Mỗi lần thấy “bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” nàng lại cảm thấy “thổn thức tâm tình”, nhớ thương chồng nơi biên ải xã xôi. Tiết hạnh của nàng còn được khẳng định khi nàng bị chồng nghi oan: “cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”.
Ngay cả khi bị Trương Sinh nghi oan thất tiết thì tình yêu, sự thủy chung của vẫn được thể hiện qua những lời phân trần hết sức tha thiết. Nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê mong tìm cách hàn gắn lại hạnh phúc gia đình.
Nhưng mọi cố gắng của nàng đều đã không được đền đáp, dù phải tìm đến cái chết để chứng minh tấm lòng của mình nàng vẫn không hề oán hận. Ở thủy cung nàng vẫn mong ngóng ngày về để đoàn tụ với gia đình.
Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc gia đình mà mình đang có và càng làm nổi bật lên niềm khát khát hướng tới hạnh phúc gia đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.
Nàng còn là một người con hiếu thảo, một người mẹ rất mực tâm lí, yêu thương con cái. Chồng đi lính, ở nhà, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là một nguời mẹ, lại vừa đóng vai trò là một nguời cha. Nàng thay chồng làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người con hiền, dâu thảo.
Chồng đi lính nàng ở nhà chăm mẹ chồng, bà vì thương nhớ con bệnh ngày một nặng. Nàng thuốc thang cầu khấn trời phật mong cho mẹ nhanh khỏi bệnh, hết lòng chăm sóc.
Tấm lòng ấy được thể hiện rõ nhất qua lời cuối cùng bà nói trước khi mất: “Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Điều đó đã cho thấy nhân cách và công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình nhà Trương Sinh.
Vũ Nương thật là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Sống trên đời không để phụ ai, luôn đối xử ân cần với mọi người. Vậy mà người con gái Nam Xương ấy đã bị phụ. Tai họa bỗng chốc ập đến, đáng lẽ ra nàng phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
Tìm được một người chồng tâm lí, cảm thông và sẻ chia những nỗi lo toan cho vợ. Nhưng thật éo le và nghịch lí thay nàng lại phải chịu một cuộc sống gia đình bất hạnh, chịu sự nghi oan từ người chồng nàng hết mực yêu thương và phải chết trong đau đớn, xót xa, đầy nước mắt.
Đó là khi Trương Sinh sau ba năm đi lính trở về. Bé Đản không chịu nhận cha, nghe lời nói của con nói, Trương Sinh nhất nhất cho rằng vợ mình không thủy chung. Nàng đã thanh minh bằng những lời tha thiết nhất nhưng Trương Sinh không tin.
Họ hàng, làng xóm bênh vực, biện bạch cho nàng cũng không ăn thua gì cả. Mẹ chồng ngưởi hiểu nàng thì đã mất. Thất vọng, đau đớn nàng phải tìm đến cái chết để bảo vệ cho sự trong sạch của mình.
Cuối truyện, Khi Trương Sinh lập đàn giải oan Vũ Nương hiện về thấp thoáng trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng, cờ kiệu rực rỡ đầy sông, nàng nói lời đa tạ Linh Phi, cảm tạ và từ biệt Trương Sinh rồi biến mất.
Đây là những chi tiết, hình ảnh thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ. Kết thúc truyện như thế, không chỉ giúp hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách của nhân vật mà còn chứng tỏ Vũ Nương vô tội. Ở thế giới bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình.
Nguyên nhân dẫn tới cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Đó trước hết là do chi tiết cái bóng và những lời nói ngây thơ của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu sa đằng sau đó là từ người chồng đa nghi,gia trưởng.
Ngay từ đầu truyện, nhà văn đã giới thiệu Trương Sinh là “con nhà hào phú nhưng không có học”, lại có tính đa nghi, đối với vợ thì hay phòng ngừa quá mức, thiếu cả lòng tin và tình thương với người tay ấp má kề với mình. Đó chính là mầm mống của bi kịch: gián tiếp gấy ra cái chết người vợ của mình.
Đồng thời, chế độ phong kiến hà khắc, nam quyền độc đoán đã dung túng cho thói gia trưởng của người đàn ông. Cho phép người đàn ông có thể đối xử tệ bạc với người phụ nữ của mình.
Nghệ thuật xây dưng nhân vật: nhân vật được khắc họa tâm lý, tính cách thông qua đối thoại, lời tự bạch đặt nhân vật vào những hoàn cảnh khác nhau. Đặc sắc trong việc sử dụng yếu tố kì ảo đã làm hoàn chỉnh, tô đậm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: Nặng tình nghĩa, coi trọng nhân phẩm, vị tha mặc dù ở thế giới khác vẫn quan tâm đến chồng con, vẫn luôn muốn khôi phục danh dự.
Đoạn văn đã cho ta thấy được những ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Tạo dựng một kết thúc như vậy ta có thể thấy được rằng Vũ Nương đã được giải oan cho mình và trở về vẻ nguy nga, lộng lẫy. Vì những người phụ nữ đương thời ấy họ không có tiếng nói của mình, họ phải sống dưới chế độ “nam quyền độc tài”.
Vì thế mà khi bị oan cũng không thể nói lên tiếng lòng của mình. Vũ nương lựa chọn cái chết để bảo vệ tiết hạnh, nhân phẩm trong sạch của mình. Đồng thời nàng cũng sang một thế giới khác, một thế giới tốt đẹp hơn.
Với nghệ thuật xây dựng truyện độc đáo, hấp dẫn tác phẩm đan xen một vài yếu tố hoang đường kì ảo nhưng “chuyện người con gái Nam Xương” đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng không phai mờ.
Đồng thời qua nhân vật Vũ Nương, tác giả đã cho ta thấy được số phận những người phụ nữa trong xã hội hiện đại. Những người phụ nữ ấy phải chịu nỗi oan khuất lạ thường, bị tước đoạt hạnh phúc.
Qua đó, tác phẩm đề cao vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ, đồng thời cảm thương cho số phận bất hạnh của họ. Và lên án, tố cáo xã hội nam quyền phi nghĩa đẩy con người đến bước đường cùng.
Xem thêm: