Phân tích tính nhân văn trong truyện Lão Hạc của nhà văn Nam Cao

Đề bài: Phân tích tính nhân văn trong truyện Lão Hạc của nhà văn Nam Cao

Khi nhắc đến cha đẻ của những truyện ngắn hiện thực xuất sắc đầu thế kỉ XX của văn học Việt Nam, ta không thể không nhắc đến nhà văn Nam Cao. Những câu truyện ông viết về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945 đã cho người đọc thấy sự đồng cảm của ông với chính đồng bào của mình. Nổi trội nhất chình là tác phẩm truyện ngắn Lão Hạc. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau phân tích tính nhân văn trong truyện Lão Hạc của nhà văn Nam Cao.

Phân tích tính nhân văn trong truyện Lão Hạc của nhà văn Nam Cao
Phân tích tính nhân văn trong truyện Lão Hạc của nhà văn Nam Cao

Giá trị nhân đạo đầu tiên của tác giả được thể hiện qua sự đồng cảm của ông với những số phận bất hạnh của chính các nhân vật trong tác phẩm của mình. Họ đều là nạn nhân của xã hội phong kiến nửa thực dân. Những con người đó luôn phải gánh chịu nạn đói rồi những hủ tục phong kiến, … Ngoài những thứ ấy, ai cũng có một vấn đề riêng của mình.

Trong tác phẩm Lão Hạc, nhân vật chính cùng tên cũng là một người trong số ấy. Ông lâm vào hoàn cảnh vô cùng khốn khổ khi người vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất của ông thì bỏ đi cao su. Không có người thân bên cạnh, ông phải tự chống chọi với sự già nua, kèm theo đó là bệnh tật, cái đói và cả sự cô đơn. Chính tác giả cũng không thể nén được sự thương cảm của mình với ông lão nên đã phải nói: “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”.

Trong tác phẩm này, không chỉ mình ông lão là người đáng thương, con trai ông cũng vậy. Anh bỏ lang đi cao su cũng chỉ vì phẫn chí do không đủ tiền để lấy được người thương. Vốn đi cao su là nơi “đi dễ khó về”, “khi đi trai tráng khi về bủng beo”. Vậy mà anh đã để người cha già ở lại làng quê mấy năm để đi vào chốn ấy rồi không biết số phận của anh giờ như thế nào.

Kể cả ông giáo, một người giữ chức vị mà được mọi người trong làng tin tưởng cũng có cuộc sống chả khá khẩm hơn. Ông cũng luôn trong tình trạng túng thiếu dặt dẹo, “sống mòn”, “rỉ ra, mốc lên”. Tác giả đã rất thành công trong việc thể hiện rõ sự đồng cảm của bản thân với những lớp người bần cùng trong xã hội Việt Nam khi ấy.

Nhưng phẩm chất đáng quý của người nông dân Việt Nam không hề bị chôn vùi dưới cái bần hàn ấy. Chính tác giả cũng biết điều ấy nên đã tôn lên nhân phẩm đáng trân trọng đó – và cũng chính là một biểu hiện nữa của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

Người đọc có thể dễ dàng thấy được các nhân vật trong truyện đa phần đều đầy ắp tình thương. Đặc biệt cảm động nhất chính là tình phụ tử ở nhân vật lão Hạc. Dù phải chịu những sự cô đơn hờn tủi, lão vẫn đau lòng chấp nhận con trai ra đi theo nguyện vọng. Người thân đi hết rồi, ở với lão chỉ còn con chó Vàng.

Vì vậy, ông coi con chó như một người bạn, thậm chí còn gọi nó là “cậu” vì yêu nó quá. Dù nghèo túng nhưng cái gì ông ăn thì “cậu Vàng” cũng được ăn và con được ăn tử tế trong bát như người. Tưởng như ông là người yêu động vật nhưng đó không phải là lý do chính khiến ông làm như vậy. Ta có thể biết được ông yêu con Vàng cũng bởi do đó là thứ duy nhất con trai ông để lại qua lời tâm sự của ông với ông giáo. Nên ta có thể cảm nhận được, tình yêu của ông với con Vàng không khác nào tình cha với người con.

Khi hoàn cảnh đưa đẩy khiến lão phải bán con Vàng, lão đã “khóc như con nít”, mắt lão “ầng ậng nước”. Không chỉ dừng lại ở hành động bán con chó, lão còn tìm đến cái chết cốt để giữ đất cho con trai. Lão đã bị cái đói dồn đến góc đường cùng. Dù lão có thể bán mảnh vườn để sống tiếp. Nhưng, với suy nghĩ rằng mảnh đất đó là do vợ để lại cho con nên cuối cùng, lão đã chọn cái chết và không bán đất của con mình.

Ta không chỉ nhìn thấy tình cảm từ phía ông lão mà các nhân vật khác đều có tình thương, tình thân da diết. Có thể kể đến con trai lão hạc, một người phẫn chí mà bỏ đi cao su nhưng vẫn để lại cho người cha của mình ba đồng bạc. Ông giáo cũng đầy tình thương người, nhà ông giáo cũng chả khá khẩm gì hơn nhưng vẫn luôn nhớ đến lão Hạc mà cưu mang, giúp đỡ.

Vốn bản thân luôn chìm trong cái đói nghèo nhưng những người nông dân Việt Nam không vì nhưng cái đấy mà vùi dập nhân phẩm, không hề trở nên hèn mọn.  Ví dụ điển hình nhất trong tác phẩm này chính là lão Hạc. Ông không động vào củ khoai, củ sắn của làng xóm, một mình chịu đựng cái đói. Ông cũng không động vào mảnh vườn của con và lại một mình chịu đựng cái đói.

Ông còn có thể đi theo Binh Tư đi đánh bả chó để kiếm ăn nhưng ông không làm và vẫn quyết nhịn đói. Và, ngay cả khi tính đến cái chết, ông cũng lo sẽ phải làm phiền hàng xóm nên đã dành dụm tiền rồi gửi ông giáo để làm ma. Hơn tất cả chính là sự dằn vặt trong lòng của ông lão sau cái chết của “cậu Vàng”. Ông tự dằn vặt bản thân bởi nghĩ “đã đi lừa một con chó”. Ẩn đằng sau tấm thân gầy gò của ông là một trái tim thật rộng lớn!

Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao đã thể hiện qua rất nhiều biểu hiện quan trọng. Đó chính là sự đồng cảm và sự ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Giọng văn của ông nghe qua thì thấy lạnh lùng, thậm chí bang quan nhưng thật ra sâu trong đó là một tình thương sâu sắc và mãnh liệt với người nông dân Việt Nam trước Cách mạng.

Xem thêm:
– Phân tích sự tài ba của Trần Quốc Tuấn qua qua tác phẩm Hịch Tướng Sĩ
– Phân tích và cảm nhận về bài thơ “Ngắm Trăng” của Hồ Chí Minh
– Phân tích hình ảnh ông đồ trong bài thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên