Từ xa xưa, các nhà văn, nhà thơ đã coi sông Bạch Đằng như một nguồn cảm hứng vô tận để sáng tác nên những tác phẩm vĩ đại. Nguyễn Sưởng cũng đã từng lấy sông Bạch Đằng làm chủ đề cho bài thơ đầy cường tráng, hào hùng mang tên “Bạch Đằng giang” của ông. Đó là một bài thơ tuy không dài nhưng đủ để khắc họa nên con sông ghi dấu bao chiến công lịch sử nước Việt:
“Mồ thù như núi, cỏ cây tươi
Sóng biển gầm vang, đá ngất trời.
Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết
Nửa do sông núi nửa do người.”
Và, Trương Hán Siêu cũng cùng với nội dung đó, đã sáng tác ra một tác phẩm mới với thể phú cổ thể rất độc đáo mang tên “Phú sông Bạch Đằng”. Với văn học trung đại, bài phú như một áng văn mẫu mực, đậm chất hào khí Đông A. Ngoài ra, ta còn cảm nhận được qua hình tượng nhân vật khách vẻ đẹp tráng chí, oai phong của người anh hùng thời Trần và cũng phần nào cảm nhận được sự lắng đọng, âm hưởng của chiến tranh vang mãi đến muôn đời sau.
Theo tài liệu ghi lại, Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, là người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, nay thuộc tỉnh Ninh Bình. Ông từng là môn khách trong nhà của ông Trần Hưng Đạo, làm quan bốn đời vua Trần và cũng từng giữ chức hàn lâm viện học sĩ. Về mặt chính sự, lịch sử ghi lại rằng, ông đã cùng Trần Quốc Tuấn thao lược, chỉ đạo quân ta thắng lớn dẹp tan, đuổi sạch kẻ thù xâm lược trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông.
Xem thêm>>> Phân tích đoạn 1 bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu
Về mặt văn học, mặc dù ông không để lại nhiều tác phẩm nhưng có tác phẩm rất nổi tiếng. Đó là “Phú sông Bạch Đằng”. Nghiên cứu lịch sử phỏng đoán bài phú ra đời vào năm 1341-1269 – dưới đời Trần Dụ Tông. Trong khoảng thời gian này, nhà Trần đang có dấu hiệu đi xuống, suy thoái, những chiến tích vang dội trên sông Bạch Đằng cũng đã phai nhạt theo năm tháng. Và, với tư cách, trách nhiệm của một vị quan, của một nhà hoạt động xã hội, Trương Hán Siêu khong thể nhắm mắt làm ngơ trước tình hình của đất nước.
Vì vậy, để xốc dậy tinh thần của nhân dân cả nước, đồng thời thể hiện niềm tự hào tự tôn dân tộc, ông đã sáng tác, viết nên bài “Phú sông Bạch Đằng”. Bài thơ đã rất thành công trong việc thể hiện được niềm tự tôn dân tộc, hơn nữa còn đem lại những chân lí đúng đắn của mọi thời đại. Qua cách đưa mình làm nhân vật khách trong tác phẩm, Trương Hán Siêu đã đem đến những suy nghĩ, cảm xúc của mình đối với những giá trị lịch sử cao đẹp.
Xuyên suốt bài phú gồm ba phần là cuộc nói chuyện qua lại, đối đáp giữa người chủ và người khách, các đoạn không hề rời rạc mà luôn có một sợi dây kết nối thống nhất, mạch lạc. Bắt đầu từ việc giới thiệu nhân vật khách và bô lão, tác giả dần dần dẫn đến những suy ngẫm, bình luận, nhận xét rồi từ đó tạo nên một cái nhìn tổng quát và toàn diện.
Người đọc không khỏi bất ngờ khi ngay từ đầu bài phú, Trương Hán Siêu đã viết:
“Khách có kè:
Giương buồm giăng gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.”
Bắt đầu bài phú, một nhân vật trữ tình hiện lên với hình ảnh của một tráng trí có tâm hồn phóng khoáng, thích du ngoạn để thưởng thức, đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên. Với người khách nhàn tản ấy, có vẻ như không có gì có thể thay thế được việc chơi với trên sóng nước, mải miết ánh trăng vàng, thả hồn phiêu đãng với thiên nhiên cùng tâm hồn chứa đầy gió trăng. Nhưng cái thú tiêu dao ấy không chỉ dừng lại ở đó, không chỉ là để thưởng thức cảnh đẹp của đất nước mà sâu hơn nữa là để ngâm cứu cảnh trí cũng như tiếp thu, nạp thêm tri thức.
Xem thêm>>> Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Người xưa thường hay có câu: “Nuốt tám chín cái đầm vân mộng vào bụng để đo chí làm trai”. Nhưng du khách trong bài phú lại nói: “Đầm vân mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều / Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Từ đó ta có thể thấy rằng, nhân vật khách mang trong mình một khát vọng lớn lao, hoài bão cháy bỏng được đi nhiều nơi, trải nghiệm nhiều thứ.
Tráng trí bốn phương, học vấn uyên thâm – ước vọng đó cũng đồng thời chính là ước vọng của Trương Hán Siêu. Ước vọng ấy được gợi qua hai loại địa danh: loại thứ nhất là loại đi qua, học qua bằng sách vở, trí tưởng tượng như Cửu Giang, Nguyên Tương, Vũ Huyệt… và loại thứ hai là loại đi qua bằng chính thực tế trải nghiệm như Đông Triều Bạch Đằng, Đại Than… Nhân vật noi gương Tư Mã Thiên, trải qua những chuyến đi du ngoạn để mở mang trí óc, tầm vóc cũng như tri thức cho chính bản thân và cho lịch sử nước nhà.
Điểm đến của nhân vật khách không chỉ là danh lam thắng cảnh mà còn là những nơi được cho là chứng tích lịch sử rồi từ đó cảm nhận được khung cảnh lịch sử trong một không gian thực tế, khoáng đạt. Điều đó đã biểu đạt rất rõ tình yêu đối với thiên nhiên cũng như đam mê thích du ngoạn của nhân vật khách. Như Tản Đã đã từng viết: “giang hồ mê chơi quên quê hương”.
Không chỉ thế, các không gian mà nhân vật khách nhắc đến đều là những nơi rất rộng lơn, mênh mông, đầy sự tự do, khoáng đạt làm cho họ giương buồm giong gió lướt bể chơi trăng mải miết cũng chưa đủ thỏa mãn. Tác giả đã một lần nữa làm nổi bật cốt cách thanh cao của một kẻ sĩ: đầy tình yêu thiên nhiên, yêu tự do, sống chan hòa và không màng đến địa vị tiền tài – thứ phù phiếm của đời người.
Đứng trước cảnh đẹp chứa đầy sự thơ mộng của sông Bạch Đằng, nhân vật khách đã phải dừng lại để ngắm kĩ hơn và nghĩ sâu thấu hơn. Trước mặt khách hiện lên khung cảnh sông Bạch Đằng với bề rộng bát ngát và chiều dài mênh mông. Vào thời điểm cuối thu, sóng biển nhấp nhô cuồn cuộn hòa cùng với màu xanh bao la của nước trời. Trên sông, những con thuyền nối đuôi nhau, theo sau là những con sóng vẫy vùng.
Xem thêm>>> Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
Cảnh sông nước hùng vĩ như vậy ấy mà nên thơ đến lạ! Tác giả đã dùng bút pháp tả thực để vẽ lại cảnh núi non bờ bãi của Bạch Đằng qua những câu từ của mình. Rồi, như để báo trước ngã rẽ của cảm xúc, phong cảnh ba thu hiu hắt đượm buồn hiện lên. Trong cái cảnh nên thơ trữ tình ấy, ẩn sâu tiềm tàng trong sông Bạch Đằng là những dấu tích của những chiến công lịch sử: “bờ lau san sát bến lách đìu hiu/ sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Đắm chìm trong cảm xúc về chiến trường xưa trong quá khứ, nhà thơ như nhìn thấy sóng chìm giáo gẫy.
Trên đống gò hoang là xương trắng phơi đầy của những người đã bỏ mình trong trận đánh lịch sử, nhà thơ Nguyễn Trãi đã từng viết: “ngạc chặt kình băm non lởm chởm/ giáo chìm gươm gãy bãi giăng giăng”. Trương Hán Siêu như một người họa sĩ tài ba, phác lên những nét bút rất mượt mà đầy gợi cảm, ẩn dụ khiến người ngắm không khỏi liên tưởng xa xăm. Tác giả rất tài tình trong việc sử dụng các câu văn, câu chữ, điển hình là những câu văn biền ngầu – chúng như những con ngựa sóng đôi tạo nên hiệu quả nghệ thuật rất đắt giá.
Dù tự hào là thế nhưng sâu trong thâm tâm tác giả đâu đó vẫn có sự tiếc nuối, cảm thương rất xúc động. Cảm thương, xúc động vì chiền trường oanh liệt thời nào giờ chỉ là một khung cảnh trơ trọi, hoang vu. Thời gian không hề nể nang mà phủ lên những trang sử vàng một lớp bụi mờ: “buồn vì cảnh thảm, đứng thẳng giờ lâu/ thương nỗi anh hùng đâu vắng tá”/ tiếc thay dấu vết luống còn lưu!”.
Và, cũng trong mạch cảm xúc tiếc nuối ấy, trong lòng nhân vật khách còn là nỗi niềm tiếc thương, bâng khuâng, biết ơn các vị anh hùng xưa đã đánh đổi tính mạng, xương máu của bản thân để lấy hòa bình cho muôn dân. Trước dòng chảy lịch sử ấy, lời ca của nhân vật khách cất lên. Đó là lời ca đầy tình nghĩa thủy chung uống nước nhớ nguồn.
Bài phú khép lại với phần bình luận, nhận xét của khách với các bô lão về sông Bạch Đằng và về đất nước, con người Đại Việt. Tác giả ca ngợi những người anh hùng như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, ca ngợi sự anh minh của hai vị thánh quân là Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông đồng thời cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ nước.
Tác phẩm đã được nâng tầng ý nghĩa nhân văn sâu sắc hơn, khái quát hơn khi tác giả khẳng định nhân tố quan trọng tạo nên chiến thắng chính là đức độ của nhà lãnh đạo, là sự yêu nước thương dân và là tinh thần đoàn kết, cảnh giác trước giặc xâm lược.
Khép lại bài phú là lời ca của khách – lời ca đó đồng thời ngợi ca hào khí Đông A, gợi lại không khí, khung cảnh đầy hào hùng của âm hưởng cuộc chiến xưa. Tác giả đã qua nhân vật khách thể hiện niềm tự hào, tin yêu dân tộc rất sâu sắc. Các câu văn của tác giả không những đầy linh hoạt mà đan xen trong đó còn là những yếu tố tự sự biểu cảm. Quả không hổ danh là đỉnh cao của thể phú trong kho tàng văn học trung đại Việt nam! Bài phú không chỉ dừng lại ở đó mà còn ẩn trong đó rất nhiều quan niệm nhân sinh và triết lí tích cực vô cùng cần thiết đối với cuộc đời của mỗi người. Thật là áng văn hay sáng mãi đến muôn đời sau!
Xem thêm>>> Cảm nhận về đất nước qua đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm