Cảm nhận về bài thơ Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng)

Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Dịch: Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng).

Cảm nhận bài thơ Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng

Bài làm:

Lý Bạch là một nhà thơ nổi tiếng và lỗi lạc thời Đường. Tuy những tác phẩm của ông đã có phần bị thất lạc nhưng đến ngày nay, sự nghiệp thơ của Lý Bạch vẫn còn lưu giữ lại được gần một nghìn bài, trong đó có những thi phẩm được tôn vinh là kiệt tác. Thơ ông có phong cách phóng khoáng, thể hiện lòng hào hiệp, khát khao tự do và thái độ xem thường công danh, phú quý, tiền bạc. Ông thường sáng tạo ra những hình ảnh độc đáo, những cảnh sắc huyền ảo và lung linh, vi diệu. Do đó, người đời vẫn tôi tặng ông danh hiệu “thi tiên”.

Trong những sáng tác được lưu truyền đến ngày nay của Lý Bạch, ta không thể không nhắc đến bài thơ tứ tuyệt vô cùng nổi tiếngHoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng dịch nghĩa làTại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng.”

Như chúng ta đã biết, Lý Bạch có nhiều bạn bè với nhiều tầng lớp khác nhau. Tình bạn của ông bao giờ cũng rất nồng hậu và chân thành. Ông có một tình bạn tuyệt vời với Uông Luân, một người bạn nông dân vô cùng chất phác và ông cũng đã từng chia sẻ tình cảm của bạn đối với mình là “sâu hơn nghìn thước”. Hay khi nghe tin bạn thơ Vương Xương Linh gặp phải chuyện chẳng lành, Lý Bạch đã mượn ý thơ mà chia sẻ với bạn nỗi buồn:

Ta gởi nỗi sầu cho trăng sáng

Theo gió đi về đất Dạ Lang.

Thêm vào đó, tình bạn giữa Lý Bạch và Đỗ Phủ vẫn là thứ tình bạn tri âm, tri kỷ tuyệt vời nhất mà hậu thế vẫn luôn ca ngợi. Cũng như vậy, Mạnh Hạo Nhiên là người bạn chí cốt, quen biết đã lâu của Lý Bạch. Hai người có rất nhiều điểm tương đồng như: đều muốn ra làm quan nhưng con đường công danh lại không được toại nguyện. Vì vậy họ đều tìm vui thú ở chốn non xanh, nước biếc. Đặc biệt, hai phong cách thơ của hai thi nhân có rất nhiều điểm gặp gỡ. Bởi vậy, khi phải nặng lòng tiễn bạn đi xa, lẽ nào nhà thơ chẳng lưu luyến?

Hai câu đầu của bài thơ:

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu

In hoa tam nguyệt hạ Dương châu

Ta dễ tưởng đây chỉ là những câu thơ trần thuật đơn giản. Không gian đưa tiễn là lầu Hoàng Hạc, thời gian đưa tiễn là một ngày tháng ba mùa yên hoa nở, nơi mà Mạnh Hạo Nhiên đến là Dương Châu. Tất cả đều được truyền đạt thông qua hai câu thơ ngắn gọn với đầy đủ những thông tin về cuộc đưa tiễn người bạn tri âm. Nhưng, khi đọc kỹ, ngẫm cho thấu ý thơ thì đó không chỉ là những thông tin lạnh lùng trên tranh giấy mà còn bao trùm lên đó là nỗi buồn thầm kín mà thấm thía. Chữ “cố nhân” ở Câu thơ được dịch thành chữ bạn. Tuy không sai nhưng nó lại chưa lột tả được sắc thái biểu cảm mà nguyên tắc Lý Bạch đã sử dụng. Cố nhân là bạn cũ, bạn lâu năm và hơn nữa đó phải là người mà ta đã từng rất trân trọng, gắn bó. Xa bạn cũ chẳng ai mà thấy không buồn, hơn nữa, với người bạn đã thân thiết từ rất lâu, nỗi buồn kia chắc chắn rằng sẽ phải nhân lên gấp bội.

XEM THÊM >>>> Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong Tấm Cám

XEM THÊM >>>> Cảm nhận của anh chị về đoạn thơ trong bài Đất Nước

Cũng như nhiều cuộc chiến biệt được diễn tả trong các áng thơ Đường, cuộc chia tay này cũng diễn ra bên bờ sông. Nhưng điểm nhìn của người đưa tiễn lại bắt đầu từ lâu Hoàng Hạc. Dường như, nhờ đứng ở trên lầu cao chót vót mà Lý Bạch có thể nhìn kỹ, nhìn lâu và nhìn xa hơn hình ảnh của người bạn thân. Và cũng từ đó mà nỗi buồn xa bạn, xa người thương trở nên thấm thía hơn khi đối diện với sự bao la của đất trời.

Điều này sẽ được thể hiện rõ nét hơn ở trong hai câu thơ cuối:

Cô phải làm viện ảnh bích không tận,

Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Nếu như hai câu thơ đầu chủ yếu tường thuật về cuộc diễn biến buổi chia tay thì hai câu thơ sau lại là nỗi lòng của kẻ đưa tiễn. Ở câu thơ thứ ba, bản dịch đã thiếu mất chữ “cô” – cô đơn lẻ loi. Đây là một từ ngữ vô cùng quan trọng để có thể miêu tả được sinh động hơn nội tâm của nhà thơ. Ngoài ra, câu thơ dịch này còn để mất ba chữ “bích không tận” – mất đi khoảng cách của không gian xanh biếc, chất chứa biết bao tâm trạng của nhân vật trữ tình. Và như vậy, câu thơ dịch dễ khiến cho người đọc hiểu lầm rằng đó chỉ là thơ tả cảnh đơn thuần, không lồng xen với tình cảm. Hình ảnh của bóng cánh buồm cô lẻ xa dần trong khoảng không gian xanh biết khiến cho người đọc có nhiều liên tưởng phong phú. Sự cô đơn của cánh buồm rất có thể là sự cô đơn của chính tác giả Lý Bạch cũng như người ra đi là Mạnh Hạo Nhiên. Chỉ bằng một hình ảnh, thi nhân đã bộc bạch được lòng mình, lòng bạn trong buổi chia phôi đầy xao xuyến.

Đến câu thơ thứ tư, bản dịch đã giữ được hình ảnh dòng sông bên trời mộng mơ nhưng đáng tiếc lại thêm hai chữ “trông theo”. Hai chữ này đã làm lộ ý thơ, thơ của Lý Bạch vốn được diễn tả theo phong cách “ý tại ngôn ngoại” nên bản dịch đã khiến cho nét đặc sắc tiêu biểu trong thư ông biến mất.

Thông thường, khi viết về những cuộc chia ly, người ta thường hay miêu tả cử chỉ và ngôn ngữ của kẻ chia ly và người đưa tiễn. Nhưng bài thơ này của Lý Bạch lại thật đặc biệt, ông không làm như vậy. Chia ly mà chẳng hề nhắc đến những giọt lệ tiễn biệt, những lời nói lâm li, đầy lưu luyến. Nhà thơ đã phá vỡ hệ thống ngôn từ, cách kể và cách tả cảnh chia ly quen thuộc từ trước đến nay. Sự phá vỡ ấy đã tạo ra một nghệ thuật, một bài thơ thật đặc sắc. Để rồi, khi nhắc đến Lý Bạch, nhắc đến những buổi chia ly người ta vẫn nhớ đến một “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng đặc biệt, đầy ngập ngùi dù chẳng có bất cứ ý một giọt nước mắt hay một lời xót xa nào.

Tải về máy>>>

Download “Cảm nhận về bài thơ Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng)”

ZA0S2 – Downloaded 481 times –

XEM THÊM >>>> Phân tích bài “Thơ Duyên” của Xuân Diệu

XEM THÊM >>>> Phân tích tâm trạng của thúy kiều trong đoạn trích “Trao duyên”

XEM THÊM >>>> Tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên